Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đưa
tư tưởng HTX vào Việt Nam. Ngay từ khi còn đang bôn ba tìm đường cứu
nước, Người đã quan tâm đến tổ chức kinh tế hợp tác xã. Trong cuốn
“Đường cách mệnh”, viết năm 1927, sau khi phân tích những lợi ích của
hợp tác xã, Người đã nhấn mạnh: Tục ngữ Việt Nam có câu “ Nhóm lại thành
giàu, chí nhau thành khó” và “Một cây làm chẳng lên non, ba cây chụm
lại thành hòn núi cao”, lý luận hợp tác xã đều nằm trong điều ấy.

Năm 1945, sau khi Việt Nam giành được độc lập, Đảng và Bác Hồ rất
quan tâm đến việc phát triển hợp tác xã. Ngày 11/4/1946, Bác viết thư
kêu gọi điền chủ nông gia ViệtNamtham gia hợp tác xã nông nghiệp (đăng
trên Báo Cứu quốc số 229, ngày 01/5/1946). Trong thư, Bác viết: “Việt
Nam là một nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế lấy canh nông làm gốc…
nông dân giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”,
“nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh thì cần phải có hợp tác
xã”; “…hợp tác xã là hợp vốn, hợp sức với nhau. Vốn nhiều, sức mạnh, thì
khó nhọc ít mà lợi ích nhiều”; “Hợp tác xã nông nghiệp là một tổ chức
có lợi to cho nhà nông. Nó là cách tranh đấu kinh tế có hiệu quả nhất,
để giúp vào việc xây dựng nước nhà. Hợp tác xã nông nghiệp giúp cho nhà
nông đạt đến mục đích, đã ích quốc lại lợi dân”. Người tha thiết kêu
gọi:“Hỡi đồng bào điền chủ nông gia, anh em ta ai chẳng mong được đầy
đủ, giàu có, ai chẳng mong cho nước thịnh dân cường. Vậy chúng ta hãy
mau mau chung vốn góp sức, lập nên hợp tác xã nông nghiệp ở khắp nơi; từ
làng mạc cho đến tỉnh thành đâu đâu cũng phải có hợp tác xã”. Sau đó
hàng loạt các cơ sở kinh tế hợp tác (lúc đầu là các tổ đổi công, tổ vần
công) được hình thành, rồi đến các hợp tác xã được phát triển mạnh mẽ
vào những năm 50-60 của thế kỷ 20 và cho đến ngày nay. Trải qua các thời
kỳ cách mạng ViệtNam, khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã luôn luôn có
những đóng góp quan trọng vào công cuộc giải phóng dân tộc và bảo vệ đất
nước.
Để giáo dục truyền thống yêu nước, tự lực, tự cường, chủ động, sáng
tạo của các hợp tác xã, động viên phong trào thi đua và phát triển kinh
tế hợp tác ở nước ta và biểu dương, khen thưởng các hình thức thích hợp
với các tập thể, cá nhân có thành tích trong việc xây dựng, phát triển
phong trào hợp tác xã, thực hiện tốt chủ trường, đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước, ngày 27/7/2011, Thủ tướng Chính phủ
đã có Quyết định số 1268/QĐ-TTg công nhận ngày 11 tháng 4 hàng năm là
“Ngày Hợp tác xã Việt Nam”.
Ôn lại truyền thống lịch sử hình thành và phát triển kinh tế hợp tác,
Hợp tác xã ở nước ta hơn 70 năm qua, chúng ta có thể tự hào về những
đóng góp quan trọng của phong trào hợp tác xã đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc ViệtNamxã hội chủ nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua các thời kỳ phát triển khác nhau,
phong trào hợp tác xã ở Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự
nghiệp cách mạng trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước; đặc biệt là
những đóng góp cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phòng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Nhìn lại lịch sử phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã ở nước ta trong những năm qua, có thể tóm tắt theo các thời kỳ như sau:
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1955: hưởng ứng lời kêu gọi
kháng chiến kiến quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào kinh tế hợp
tác được hình thành và phát triển ở nhiều vùng tự do và căn cứ địa cách
mạng với các hình thức hợp tác giản đơn như tổ hợp tác, tổ vần công, tổ
đổi công, tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Trong phong trào đó, năm 1948
Hợp tác xã Thủy tinh Dân chủ ra đời, có thể nói đó là hợp tác xã đầu
tiên được thành lập tại chiến khu Việt Bắc, mở đầu cho sự ra đời và phát
triển của phong trào hợp tác xã ở Việt Nam sau khi nước ta giành được
độc lập. Trong thời kỳ này, mặc dù số lượng cơ sở kinh tế hợp tác, hợp
tác xã phát triển chưa nhiều, năng lực sản xuất còn hạn chế nhưng đã thu
hút hàng chục vạn nông dân, thợ thủ công vào con đường làm ăn tập thể.
Sự phát triển của phong trào kinh tế hợp tác, hợp tác xã cùng với kết
quả của cải cách ruộng đất đã góp phần giải phóng nông dân thoát khỏi sự
ràng buộc của phương thức sản xuất phong kiến, đưa nông dân lên vị trí
người làm chủ, có những đóng góp tích cực trong việc đảm bảo hậu cần cho
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, động viên sức người, sức của cho
tiền tuyến.
Thời kỳ 1955-1960: Từ những cơ sở kinh tế hợp tác, hợp tác xã được
hình thành trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, ngay sau khi
miền Bắc được giải phóng, Đảng, Nhà nước ta đã chú trọng chỉ đạo xây
dựng, phát triển hợp tác xã trong các ngành kinh tế.
Chỉ trong một thời gian ngắn, sau giai đoạn thí điểm xây dựng các hợp
tác xã và các hình thức hợp tác giản đơn, trong 3 năm (1958-1960) miền
Bắc đã có hơn 50.000 hợp tác xã được thành lập. Trong đó có 41.000 hợp
tác xã nông nghiệp, với 2,4 triệu hộ nông dân tham gia, bằng 84,8% số hộ
và 76% diện tích ruộng đất vào các hợp tác xã, đến năm 1960 về c�� bản
miền Bắc đã hoàn thành việc hợp tác hóa bậc thấp trong nông nghiệp.
Trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp có 2.760 hợp tác xã, 20 vạn lao
động, chiếm 88% số thợ thủ công vào làm trong các hợp tác xã. Hơn 250
hợp tác xã mua bán ở cấp huyện với 4.320 cửa hàng hợp tác mua bán được
tổ chức. Trong lĩnh vực tín dụng đã thành lập được 5.294 hợp tác xã với 2
triệu xã viên tham gia. Hơn 520 hợp tác xã ngư nghiệp ở vùng biển với
78% lao động và 75% thuyền, lưới tham gia vào hợp tác xã.
Việc vận động xây dựng, phát triển phong trào hợp tác xã trong giai
đoạn này thực sự là một phong trào cách mạng rộng lớn, thu hút được đại
bộ phận hộ nông dân, hộ kinh tế cá thể và người lao động tham gia. Kết
quả hoạt động của các hợp tác xã trong những năm 1955-1960 đã góp phần
to lớn vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh,
góp phần thúc đẩy kinh tế trong giai đoạn này phát triển với tốc độ cao.
Đồng thời thông qua việc xây dựng và phát triển phong trào hợp tác xã
đã hình thành quan hệ sản xuất mới, khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn
tư liệu sản xuất, đất đai và sức lao động; đưa những hộ nông dân, những
người sản xuất nhỏ, thợ thủ công, tiểu thương vào làm ăn hợp tác trong
các hợp tác xã theo đường lối của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Với quan hệ sản xuất mới,
phù hợp cùng với các yếu tố chính trị, xã hội mới đã tạo ra sự hăng
hái, phấn khởi sản xuất trong nông dân, sản xuất phát triển, tình hình
nông thôn có chuyển biến tích cực, đời sống nông dân và bộ mặt nông thôn
có bước phát triển rõ rệt cả về kinh tế, văn hóa, xã hội.
Trong giai đoạn 1961-1965: phát huy những thành quả đã đạt được,
phong trào kinh tế hợp tác, hợp tác xã tiếp tục được đẩy mạnh. Cùng với
việc thực hiện cuộc vận động cải tiến quản lý, xây dựng các hợp tác xã
bậc cao với quy mô được mở rộng trong lĩnh vực nông nghiệp, hàng ngàn
hợp tác xã trong các lĩnh vực phi nông nghiệp như tiểu thủ công nghiệp,
mua bán, vận tải, tín dụng, xây dựng được thành lập, thu hút hàng triệu
quần chúng nhân dân tham gia.
Các hợp tác xã nông nghiệp với hình thức tổ chức lao động tập thể,
nhanh chóng chuyển biến phương thức sản xuất nông nghiệp từ tự cung tự
cấp, phân tán thành sản xuất tập trung, đưa máy móc, công cụ và kỹ thuật
canh tác mới vào sản xuất. Cơ sở vật chất kỹ thuật trong các hợp tác xã
được tăng cường, giá trị tài sản cố định của các hợp tác xã năm 1965
tăng gấp 6,5 lần. Các công trình thủy lợi được xây dựng, đồng ruộng được
cải tạo, khai hoang phục hóa được đẩy mạnh. Vì vậy, số hộ nông dân tham
gia hợp tác xã đã tăng từ 84,8% năm 1960 lên 90% năm 1965, diện tích
đất canh tác của hợp tác xã so với tổng diện tích tăng từ 68% lên 80,3%.
Các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp cũng phát triển các cơ sở sản
xuất tập trung, tích cực cải tiến kỹ thuật nâng cao chất lượng sản phẩm.
Giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp do các hợp tác xã
sản xuất ra năm 1965 tăng gấp 8,4 lần so với năm 1960. Lần đầu tiên khu
vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã ở nước ta tổ chức sản xuất được hàng
xuất khẩu và xuất khẩu đến thị trường nhiều nước trên thế giới.
Các hợp tác xã mua bán cơ sở được chuyển về xã và mạng lưới mua, bán
được mở rộng đến tận thôn, bản. Chỉ trong 3 năm 1962-1965 hơn 3000 hợp
tác xã mua bán đã được thành lập. Tỷ trọng chiếm trong tổng mức bán lẻ
của thị trường xã hội của các hợp tác xã mua bán tăng từ 6,5% năm 1962
lên 18% năm 1965. Các hợp tác xã mua bán đã làm tốt vai trò trợ thủ đắc
lực của thương nghiệp quốc doanh trong việc đại lý bán lẻ hàng công nghệ
phẩm và thu mua ủy thác lương thực, nông sản thực phẩm cho Nhà nước.
Các hợp tác xã tín dụng cũng được phát triển mạnh ở khắp các vùng,
các miền trên miền Bắc. Với gần 2.500 cơ sở, hoạt động của các hợp tác
xã tín dụng đã tạo điều kiện hỗ trợ nông dân về vốn; góp phần hạn chế,
xóa bỏ dần nạn cho vay nặng lãi.
Cùng với những đóng góp về kinh tế, phong trào hợp tác xã còn có vai
trò quan trọng về mặt xã hội, như giải quyết việc làm cho hàng triệu lao
động, hỗ trợ các hộ xã viên phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện
đời sống. Các hợp tác xã còn chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội, nâng cao giác ngộ chính trị cho đông đảo quần chúng
lao động. Đồng thời còn là nơi đào tạo đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm
thực tiễn để bổ sung cán bộ cho địa phương. Trong giai đoạn này các hợp
tác xã còn có vai trò quan trọng trong việc xây dựng lối sống mới, có
văn hóa ở nông thôn thông qua việc tổ chức các dịch vụ phục vụ các nhu
cầu xã hội như tang lễ, hiếu hỷ, giữ trẻ,…
Các phong trào thi đua của hợp tác xã cũng được đẩy mạnh. Phong trào
thi đua học và làm theo Hợp tác xã Đại Phòng (Quảng Bình), Hợp tác xã
Thành Công (Thanh Hóa),… được các địa phương phát động sâu rộng và đạt
kết quả thiết thực.
Thời kỳ 1965-1975: Từ năm 1965, khi Đế quốc Mỹ đưa máy bay ra ném bom
phá hoại miền Bắc, quy mô chiến tranh mở rộng. Với khẩu hiệu “Tất cả để
chiến thắng”, “Tất cả để giải phóng miềnNamruột thịt”. Các HTX được
củng cố, phát triển và trở thành một lực lượng kinh tế quan trọng trong
nền kinh tế của hậu phương lớn miền Bắc.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, cuộc vận động cải tiến quản lý, tổ chức
lại sản xuất được phát động và tổ chức thực hiện như một cuộc vận động
cách mạng lớn. Các hợp tác xã tiến hành củng cố chế độ sở hữu tập thể
trong HTX, tổ chức các đội sản xuất kết hợp với các đội chuyên khâu, đầu
tư tăng cường cơ sở vật chất. Nhiều phong trào sản xuất được phát động
như phong trào xây dựng những cánh đồng 5 tấn/ha, phong trào học tập Hợp
tác xã nông nghiệp Đại Phòng (Quảng Bình), Hợp tác xã nông nghiệp Vũ
Thắng (Thái Bình),…
Các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp cũng được củng cố chuyển dần
thành hợp tác xã bậc cao, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của nhân dân, cung cấp hàng hóa cho chiến trường, đồng thời
cũng đã sản xuất ra nhiều mặc hàng thủ công mỹ nghệ có giá trị xuất
khẩu.
Các hợp tác xã mua bán cũng đã tổ chức tốt việc tham gia lưu thông
hàng hóa trong thị trường, đưa hàng hóa tới tay người tiêu dùng, chống
nạn đầu cơ, nâng giá, ép giá.
Các hợp tác xã vận tải ngoài việc đáp ứng các nhu cầu vận chuyển hàng
hóa, hành khách còn trực tiếp tham gia vận chuyển lương thực, vũ khí ra
tiền tuyến phục vụ chiến đấu.
Trong giai đoạn này, mặc dù phải hoạt động trong điều kiện chiến
tranh vô cùng ác liệt, phong trào hợp tác xã vẫn được củng cố và phát
triển. Trong nông nghiệp, các hợp tác xã được đổi mới, mở rộng quy mô
(sáp nhập các hợp tác xã có quy mô nhỏ vào thành hợp tác xã có quy mô
lớn, toàn xã). Đến cuối năm 1974, toàn miền Bắc có hơn 46.000 hợp tác xã
trong các ngành, lĩnh vực, trong đó hầu hết các hợp tác xã nông nghiệp
đã tổ chức lại theo quy mô toàn xã, thu hút 96% số hộ nông dân tham gia.
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vẫn đạt tốc độ tăng trưởng
khá, trong những năm 1970-1974 bình quân tăng 11,8%, chiếm hơn 32% giá
trị sản lượng công nghiệp địa phương. Các hợp tác xã mua bán cũng nâng
tỷ trọng chiếm lĩnh thị trường bán lẻ xã hội lên 21%.
Trên cơ sở giáo dục lòng yêu nước, các hợp tác xã đã động viên được
sự lao động quên mình của các xã viên hợp tác xã, vừa sản xuất vừa chiến
đấu, với khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người”, “Tay cày, tay súng”, vừa sản xuất nhiều lương thực, thực phẩm,
hàng hóa tiêu dùng chi viện cho miền Nam, vừa tổ chức các đơn vị tự vệ,
tham gia chiến đấu, đánh trả máy bay địch, bảo vệ quê hương. Nhờ có hợp
tác xã, chúng ta đã huy động được cao độ sức người, sức của cho tiền
tuyến, huy động được hàng triệu thanh niên trai tráng nông thôn ra mặt
trận, đánh giặc cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Các
hợp tác xã còn làm nòng cốt trong cuộc vận động toàn dân thực hiện công
tác hậu phương quân đội, trực tiếp chăm sóc gia đình thương binh, liệt
sỹ; tiếp nhận các chiến sĩ, thương bệnh binh từ mặt trận về tham gia sản
xuất với các công việc phù hợp, tạo điều kiện ổn định cuộc sống. Các
hợp tác xã còn là nơi giáo dục, nâng cao ý thức chính trị cho quần chúng
nhân dân, xây dựng nếp sống văn hóa, đề cao tình làng nghĩa xóm, tương
trợ, giúp đỡ lẫn nhau, đóng góp tích cực vào những thành tựu của cuộc
cách mạng tư tưởng văn hóa ở nông thôn.
Thời kỳ 1975-1986: Sau chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975, miền
Nam hoàn toàn được giải phóng, cả nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa
xã hội, các hợp tác xã được phát triển mạnh mẽ ở các tỉnh, thành phố
phía Nam.
Thực hiện chính sách cải tạo theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần
thứ 24 (Khóa III) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
của Đảng, với mục tiêu là đến năm 1980 hoàn thành cơ bản việc cải tạo xã
hội chủ nghĩa ở các tỉnh, thành phố phía Nam. Chỉ trong 4 năm
(1976-1980) chúng ta đã xây dựng được 4.000 tổ đoàn kết sản xuất, 5.000
tổ hợp tác sản xuất và gần 1.000 hợp tác xã tiểu, thủ công nghiệp, thu
hút 70% lực lượng lao động trong các ngành nghề quan trọng và địa bàn
sản xuất tập trung. Trong thương nghiệp đã xây dựng được hợp tác xã mua
bán ở 92% số xã, lực lượng hợp tác xã mua bán cũng đã giúp Nhà nước nắm
80% nguồn hàng tiểu thủ công nghiệp của địa phương và 30% nguồn hàng
nông sản.
Đối với khu vực nông nghiệp, thực hiện Chỉ thị 15 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về việc thí điểm cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông
nghiệp, phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp được đẩy mạnh, tính
đến cuối năm 1980 toàn miền Nam đã xây dựng được 2.689 hợp tác xã và
11.530 tập đoàn sản xuất.
Ở miền Bắc, phong trào cải tiến quản lý, tổ chức lại sản xuất trong
các hợp tác xã nông nghiệp được đẩy mạnh. Quy mô các hợp tác xã nông
nghiệp tiếp tục được mở rộng và tiến hành tổ chức lại sản xuất theo
hướng tập trung, chuyên môn hóa và cơ giới hóa. Các hợp tác xã trong các
lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, tín dụng, xây dựng cũng được củng cố và
tiếp tục phát triển, hoạt động có hiệu quả.
Đến năm 1986, năm được coi là năm phát triển cao nhất của phong trào
hợp tác xã ở Việt Nam, cả nước có 76.000 hợp tác xã trong các ngành,
lĩnh vực kinh tế, thu hút hơn 20 triệu xã viên tham gia. Trong đó có
16.740 hợp tác xã nông nghiệp, 40.228 tập đoàn sản xuất, với 94,2% số hộ
nông dân và 80,8% tổng số ruộng đất canh tác nông nghiệp, sản xuất hơn
80% sản lượng lượng thực, thực phẩm của cả nước. Trong lĩnh vực công
nghiệp, thủ công nghiệp, cả nước có 32.000 hợp tác xã, với 1,27 triệu
lao động, sản xuất ra một khối lượng hàng hóa chiếm 30% giá trị sản
lượng công nghiệp toàn quốc và gần 50% giá trị sản lượng công nghiệp địa
phương. Trong lĩnh vực thương mại, cả nước có 9.600 hợp tác xã mua bán
cơ sở xã, phương, 10 vạn điểm mua, bán hàng. Các hợp tác xã mua bán đã
chiếm gần 20% tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ của thị trường xã hội
và đại lý thu mua ủy thác hơn 60% sản lượng hàng hóa nông sản, thực phẩm
cho cả nước. Trong những năm này, hơn 9.900 hợp tác xã vận tải với hàng
chục ngàn phương tiện đã vận chuyển hơn 45% khối lượng hàng hóa và 50%
khối lượng hành khách vận chuyển của các địa phương. Trong lĩnh vực xây
dựng, cả nước đã có 3.913 hợp tác xã xây dựng và sản xuất vật liệu xây
dựng, góp phần quan trọng phục vụ cho việc xây dựng các công trình công
cộng và nhà ở cho nhân dân. Trong lĩnh vực tín dụng với 7.100 hợp tác
xã, đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ vốn phục vụ yêu cầu
phát triển sản xuất của các hộ xã viên, khắc phục tình trạng cho vay
nặng lãi ở nông thôn.
Thời kỳ 1987 đến nay: từ năm 1987, thực hiện đường lối đổi mới được
đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thức VI, khu vực kinh tế hợp tác,
hợp tác xã đã có những biến đổi quan trọng và có thể nói từ năm 1987 đến
năm 1996 là giai đoạn khó khăn nhất của các hợp tác xã ở nước ta. Khi
cơ chế quản lý tập trung bao cấp từng bước được xóa bỏ, cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước được hình thành và điều tiết các quan
hệ kinh tế; phần lớn các hợp tác xã trong các ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế rơi vào tình trạng khó khăn, lúng túng, nhiều hợp tác xã sản
xuất kinh doanh thua lỗ bị tan rã, giải thể. Tuy nhiên, trong khó khăn
vẫn có một bộ phận hợp tác xã đã kịp thời chuyển đổi thích ứng với cơ
chế mới, hoạt động có hiệu quả.
Từ khi Luật Hợp tác xã đầu tiên được Quốc hội ban hành vào cuối năm
1996, có hiệu lực thi hành từ 01/7/1997 đến Luật Hợp tác xã năm 2003 và
Luật Hợp tác xã năm 2012. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để hợp tác xã
nước ta củng cố, đổi mới, phát triển bền vững.
Đến cuối năm 2015, cả nước có trên 150.000 tổ hợp tác, 18.024 HTX.
Trong đó, lĩnh vực nông nghiệp có 10.452 HTX; thương mại-dịch vụ có
1.424 HTX; xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng có 846 HTX; công
nghiệp – tiểu thủ công nghiệp có 2.187 HTX; vận tải có 965 HTX; tài
chính – tín dụng có 1.145 quỹ tín dụng nhân dân; các lĩnh vực, ngành
nghề khác là 1.005 HTX và 41 Liên hiệp HTX thu hút khoảng 13 triệu thành
viên và người lao động.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm: dịch vụ nông nghiệp, thủy sản,
lâm nghiệp và làm muối,... gọi chung là hợp tác xã nông nghiệp. Hầu hết
các hợp tác xã đã tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh gắn với kinh
tế hộ theo hình thức dịch vụ hỗ trợ với các khâu dịch vụ như thủy lợi,
làm đất, bảo vệ thực vật, cung ứng vật tư kỹ thuật, phân bón, cây con
giống,... Một số hợp tác xã đã tổ chức được việc tiêu thụ nông sản hàng
hóa cho xã viên. Nhiều HTX cùng với việc tổ chức tốt các hoạt động dịch
vụ nông nghiệp đã chú trọng phát triển thêm các ngành nghề sản xuất công
nghiệp, thủ công nghiệp và các hoạt động thương mại, dịch vụ khác, hình
thành HTX dịch vụ kinh doanh tổng hợp. Thông qua hoạt động hỗ trợ của
hợp tác xã, nhiều hộ xã viên đã phát triển sản xuất có hiệu quả, thu
nhập và đời sống được cải thiện, một số hộ đã giàu lên.
Trong lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp, phần lớn các HTX đã được
đổi mới và tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh đạt kết quả tốt, thích
ứng được với cơ chế thị trường, mở rộng được sản xuất và góp phần đáng
kể vào việc cung ứng hàng tiêu dùng cho xã hội và cho xuất khẩu. Giá trị
sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp trong những năm qua đạt tốc độ
tăng trưởng cao, bình quân đạt 20%.
Các HTX thương mại, dịch vụ cũng phát triển ở các vùng, đô thị, nhất
là các thành phố lớn. Nhiều HTX, Liên hiệp HTX đã bám sát các yêu cầu
của sản xuất và đời sống xã viên để tổ chức kinh doanh phục vụ. Bên cạnh
việc mở rộng kinh doanh để chiếm lĩnh thị trường, áp dụng những phương
thức bán hàng văn minh, vẫn chú ý phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng của
nhân dân, nhất là đối với những bà con xã viên nghèo.
Các HTX vận tải trong những năm qua cũng được đổi mới về tổ chức,
quản lý và phương thức hoạt động, có vai trò rất quan trọng trong việc
đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa, đi lại của nhân dân. Hiện nay, các
HTX giao thông vận tải đáp ứng 48% nhu cầu vận chuyển của toàn ngành, ở
một số tỉnh, thành phố tỷ trọng vận tải hàng hóa và hành khách do các
HTX đảm nhận chiếm từ 60 đến 75%.
Hoạt động của các quỹ tín dụng nhân dân cũng không ngừng được mở
rộng, có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong nhân
dân để hỗ trợ các thành viên phát triển sản xuất, giải quyết việc làm,
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo và đẩy lùi tệ
nạn cho vay nặng lãi ở khu vực nông thôn.
Trong các ngành, lĩnh vực khác như dược, y tế, giáo dục, nhà ở, vệ
sinh môi trường, dịch vụ điện, nước, tin học, ... đã xuất hiện các HTX
hoạt động hiệu quả, tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho thành viên
và người lao động, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn; góp phần làm
giảm khoảng cách giàu – nghèo và bảo đảm an sinh xã hội tại các địa
phương.
Có thể nói trong quá trình đổi mới từ cuối những năm 80 trở lại đây,
phong trào hợp tác xã ở nước ta đã không ngừng phấn đấu vươn lên, vượt
qua những khó khăn, thách thức, từng bước thoát ra khỏi cơ chế quản lý
cũ, hình thành mô hình HTX kiểu mới. Mặc dù còn những khó khăn, nhưng
các cơ sở kinh tế hợp tác xã đã khẳng định được vai trò, vị trí của
mình, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Về kinh tế, trong những năm qua khu vực hợp tác xã đã có những đóng
góp không nhỏ vào tăng trưởng GDP chung của nền kinh tế. Nhưng quan
trọng hơn, hoạt động của các HTX đã thực sự có tác dụng thúc đẩy kinh tế
hộ phát triển, tạo ra mối liên kết, hợp tác giữa các hộ xã viên trong
HTX và giữa xã viên với các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ và vừa khác,
góp phần gia tăng sản lượng hàng hóa nông, lâm, thủy sản, lương thực.
Các HTX thông qua tổ chức và hoạt động của mình đã huy động có hiệu quả
các nguồn lực của xã hội để mở rộng sản xuất, phát triển ngành nghề,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc
biệt trong nông nghiệp, nông thôn. Chỉ tính riêng 100 HTX điển hình
tiên tiến được nhận Cúp vàng “Hợp tác vì cộng đồng thịnh vượng” vào năm
2012 cho thấy, tổng vốn hoạt động của 100 đơn vị đạt 9.314 tỷ đồng,
doanh thu 27.960 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 636 tỷ đồng, nộp ngân sách 363
tỷ đồng, thu hút 74.791 lao động và đóng góp 22 tỷ đồng cho công tác xã
hội, từ thiện,...
Về xã hội, với tính chất là tổ chức kinh tế - xã hội, các HTX đã tham
gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề xã hội như tạo việc làm,
thu nhập cho khoảng 13 triệu người, đặc biệt là các đối tượng xã hội,
góp phần giúp nhiều hộ thoát khỏi đói nghèo, ổn định đời sống. Các HTX
còn là nơi giáo dục ý thức cộng động, đề cao các giá trị văn hóa, đạo
đức, phát huy tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết, hỗ trợ giúp đỡ
nhau cùng làm giàu, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Các HTX
ở các vùng, miền trong cả nước còn thể hiện rõ vai trò tích cực của
mình trong việc góp phần ổn định chính trị, giữ gìn trật tự an ninh quốc
phòng, tham gia củng cố hệ thống chính trị cơ sở,...
Với những thành tích đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, trong 70 năm qua, các HTX , Liên hiệp HTX và Liên minh HTX
các cấp đã được Đảng, Nhà nước và Chính phủ trao tặng nhiều hình thức và
danh hiệu khen thưởng. Đã có 107 tập thể và cá nhân được phong tặng
danh hiệu anh hùng lao động; 1.100 Huân chương các hạng; hàng ngàn cờ
thi đua của Chính phủ và nhiều Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
Chủ tịch nước tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho cán bộ, xã viên và
Liên minh HTX Việt Nam vìcó nhiều công lao to lớn, có nhiều thành tích
xuất sắc đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của Dân tộc. Huân
chương Độc lập hạng Ba cho Ban Chấp hành Liên minh HTX Việt Nam đãcó
thành tích đặc biệt xuất sắc trong công tác, góp phần vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Ngoài ra Liên minh HTX các tỉnh, thành phố và các HTX, Liên hiệp HTX,
thành viên còn được Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, các Bộ, ngành
trao tặng hàng chục ngàn Bằng khen và danh hiệu thi đua khác.
Phát huy truyền thống 70 năm, năm 2016 khu vực kinh tế tập thể, hợp
tác xã tiếp tục đẩy mạnh quá trình củng cố, đổi mới, phát triển và nâng
cao năng lực cạnh tranh, tận dụng những cơ hội, vượt qua khó khăn, thách
thức để hoạt động hiệu quả và phát triển bền vững trong bối cảnh Việt
Nam hội nhập quốc tế, đóng góp ngày càng nhiều vào phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
Liên minh HTX các cấp tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến, quán triệt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể, HTX. Tập trung vào
tổ chức triển khai Kế hoạch Cuộc thi tìm hiểu Luật THX năm 2012 và tìm
hiểu các loại mô hình HTX kiểu mới. Tích cực chủ động nghiên cứu đề xuất
cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể; đẩy mạnh công tác
tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn chuyển đổi, tổ chức đăng ký lại HTX theo quy
định của Luật HTX năm 2012. Tổng hợp nhu cầu, xây dựng đề án, chương
trình, kế hoạch, dự án hỗ trợ phát triển HTX theo Quyết định số
2261/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị số 19/CT-TTg với các nội
dung sát với thực tế của ngành, địa phương, trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt, tạo nguồn lực để hỗ trợ, thúc đẩy phát triển HTX. Tham gia tích
cực vào việc xây dựng mô hình HTX kiểu mới gắn với chuỗi giá trị sản
phẩm, trong đó trọng tâm ưu tiên lĩnh vực nông nghiệp; xây dựng và triển
khai kế hoạch thí điểm, hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX nông nghiệp
kiểu mới gắn với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Củng cố, kiện toàn, nâng cao vai trò, trách nhiệm vị thế, chất lượng
hiệu quả hoạt động của Liên minh HTX các cấp lập thành tích thiết thực
chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc Liên minh HTX Việt Nam lần thứ V,
nhiệm kỳ 2016-2020 và các ngày lễ lớn của đất nước trong năm 2016./.
Nguồn: Liên minh HTX Việt Nam